( Bài ca nói sơ lược một số điều chính yếu về lịch sử Việt Nam)
Tác giả: Doãn Hữu Mai
Yếu già giúp được chi ai
Nỗi lòng muốn viết một bài sử ca
Để cho ai muốn biết là
Cội nguồn dân tộc, đến ta thế nào
Người Việt cổ, có từ bao?
Ba ức năm cũ (1) sử sao rõ ràng
Vua Hùng dựng Nước Văn Lang
Cha truyền con nối, có rằng nghìn năm
Cư dân làm ruộng, chăn tằm
Đồ đồng phát triển, dân chăm cấy trồng
Đề phòng phương Bắc tấn công
Thục An thống nhất núi sông một miền
Thế kỷ Ba trước công nguyên
Ta nên ghi nhớ liền liền đừng quên
Nước Âu Lạc, Thục đổi tên (2)
Cổ Loa thành ấy là miền kinh đô
Triệu Đà sắp sẵn mưu đồ
Cho con Trọng Thủy, thăm dò ngược xuôi
Một phen binh lửa, sóng dồi
Dân mình nô lệ, người người lầm than
Giặc chia: Giao Chỉ, Cửu Chân
Nước Âu Lạc cũ, hai phần trị cai
Bắc triều, Nhà Hán lên ngôi
Triệu Đà thất thế, vua tôi đầu hàng
Nước mình lúc ấy chuyển sang
Nhà Hán cai trị, lại ràng buộc hơn
Nỗi niềm thống khổ, căm hờn
Giặc Nhâm, giặc Tích(3) nguồn cơn nỗi này
Trăm đường đói rách, đắng cay
Thi Sách bị giết, thù này không tha
Trước vì nước, sau vì nhà
Bà Trưng khởi nghĩa phất cờ đuổi Tô(4)
Thắng rồi xây dựng cơ đồ
Mê Linh là đất Kinh đô bấy giờ
Năm bốn mươi đến bốn ba(4b)
Nữ Vương rạng rỡ, chói lòa sử xanh
Người mình làm chủ nước mình
Bà Trưng xá thuế, dân tình sướng vui
Hán Quang Vũ, phải ngậm ngùi
Lại sai Mã Viện, già rồi xuất chinh
(1)1ức=10 vạn=100 000; (2)Thục Phán - An Dương vương (3)Nhâm Diên, Tích Quang (Quan nhà Hán); (4) Tô Định (4b) Năm 0040 , Năm 0043
Hai vạn giặc, thế Bà chênh
Khó lòng thắng được, gieo mình Hát Giang
Bài ca tuy tắt giữa chừng
Gương anh hùng ấy lẫy lừng muôn thu
Trời phương Bắc có mây mù (Trung quốc bấy giờ)
Lại chia ra Ngụy - Thục - Ngô ba miền
Giành quyền, giành đất liên miên
Anh em Sỹ Nhiếp(8), riêng miền Giao Châu
Vét vơ, vơ vét làm giàu
Nào tô, nào cống, quặn đau dân mình
Nhiều nơi khởi nghĩa đấu tranh
Giặc đều tàn sát, hành hình dã man
*
Chữ nho nó mới đưa sang
Dạy cho người Việt - tay chân nó mà
Bấy giờ là thế kỷ Ba(9)
Chủ trương đồng hóa lại đà tăng lên
Đồ sắt ta đã biết rèn
Chế ra công cụ, ta thêm đồ dùng
Đê điều cùng với thủy nông
Dân mình cũng đã góp công cùng làm
Gốm men, giấy viết, vỏ trầm(11)
Thủy tinh, mỹ nghệ, đã làm Ngô khen(12)
Giao thông các nước trong miền
Bán buôn giao dịch tăng lên ít nhiều
Hán dân di trú cũng nhiều
Bài đồng(13), giữ cốt là điều từ đây
Cảm ơn tiên tổ lắm thay
Người Hán hóa Việt, ta thì không sao
*
Phong trào khởi nghĩa dâng trào
Anh em bà Trệu cờ đầu xông pha(15)
Khởi binh ở đỉnh núi Nưa
Giết tên thứ sử quân Ngô bấy giờ
Sau vì Lục Dận mưu cơ
Núi Tùng, Hậu Lộc bà đà hy sinh
Bà Triệu mất, nhưng dân mình
Lại theo Thúc Hiến, Trường Nhân chống thù(18)
Tấn, Tống, Tề - đã thay Ngô
Tội quân xâm lược, bút mô tả tường
Quân Tề đổ, lại quân Lương
Tham tàn, bạo ngược, dứt đường hiếu sinh
Nhờ ông Lý Bí – Thái Bình(19)
(8) Hai anh em Sĩ Nhiếp cai trị. (9)Sau công nguyên. (11) Giấy làm bằng vỏ cây trầm. (12) Nhà Ngô. (13) Bài trừ đồng hóa. (15) Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh. (18)Lý Thúc Hiến và (19)Lý Trường Nhân
Có tài văn võ khởi binh hô hào
Hiền tài hào kiệt các châu
Theo về tính kế cùng nhau diệt thù
Trong ba tháng, sạch mây mù
Cùng nhau dựng nước, cơ đồ Vạn Xuân
Xưng Nam đế(20), giữa mùa Xuân
Dựng chùa Khai quốc, khải hoàn non sông
Giặc phương Bắc, bọn nhà Lương
Một năm, lại đã mở đường xâm lăng
Phải lùi, tình thế rất căng
Trao quyền Quang Phục(21), vĩnh hằng Vua đi
Đầm Dạ Trạch, Quang Phục về
Việt vương họ Triệu, tuyên thề lên ngôi
Thế kỷ sáu, năm năm mươi(22)
Việt vương toàn thắng, đất trời về ta
Hai mươi năm, nước âu ca
Nội chiến Phật Tử (23), lại đà nổi lên
Tranh được chức, cướp được quyền
Nhà Tùy xâm lực, Lý (23) liền bị thua
Lý(23) bị bắt, nát cơ đồ
Dân tình đau khổ, Cổ Loa mịt mùng
Nhà Tùy đổ, lại nhà Đường
Lạ chi thống trị là phường như nhau
Đô hộ phủ- mười hai châu
An Nam(24) từ đó, còn đâu vua mình
Hai tròng, tròng cổ nhân đinh
Ngoại bang là một, quan mình là hai
Suốt ba thế kỷ đường dài
Nhà Đường cai trị, ta thì ra sao
Đạo Nho, đạo Phật truyền vào
Nhà Đường thịnh trị(25), Ta nào chịu đâu
Lưu Diên Hựu - quan đô hầu
Nghĩa quân Đinh Kiến cho chầu Diêm vương
Thế kỷ Bảy, quá nửa chừng(26)
Thời gian lịch sử ta đừng quên đi
Thế kỷ Tám - Nam Đàn kia
Vạn An - rú Đụn, nhớ thì Vua Đen(27)
Quân ra bắc, giặc thua liền
Lên ngôi hoàng đế, binh quyền lừng danh
(20) Lý Nam đế, (21) Triệu Quang Phục), (22) Năm 550, (23)Lý Phật Tử,người cùng họ với Lý Nam đế,(24)Nhà Đường đặt tên nước ta là An Nam đô hộ phủ và chia ra 12 châu, (25)Thịnh trị ở Trung quốc (26)Năm 687 Lý Tự Tiên và Đinh Kiến khởi nghĩa (27)Vua Mai Hắc Đế
Dương Tư Húc(28) vuốt nanh của giặc
Mười vạn quân gieo rắc tang thương
Bài ca lại tắt giữa chừng
Nhưng rồi lại có Phùng Hưng hô hào
Tướng của giặc, họ Cao thua trận(29)
Thành Tống Bình, Phùng(30) bận toan lo
Làm sao xây dựng cơ đồ
Dài lâu độc lập cõi bờ nước Nam
Nào ngờ chỉ được bảy năm
Phùng Hưng vĩnh biệt cõi trần, quy tiên
Ngôi thừa kế Phùng An được giữ
Giặc Triệu Xương cho sứ dụ hàng
Phùng An quên hết máu xương
Đã ra hàng giặc nhà Đường, giữ thân
Giặc vào đàn áp nhân dân
Đau thương lại gấp bội phần đau thương
Có người tướng lĩnh họ Dương(31)
Thương dân, căm giặc, mưu đường biến binh
Tấn công thành phủ Tống Bình
Giết Lý Tượng Cổ (32), chiếm thành ung dung
Quế Trọng Vũ quan nhà Đường
Dùng mưu ly gián trong hàng ngũ ta
Giặc vào Dương tướng(31) bị thua
Cha con giặc giết, giặc thu gia tài
Rồi miền trong đến miền ngoài
Nhiều lần khởi nghĩa - đến đời Khúc ông(33)
Tiết độ sứ - Ông tự phong
Dân ta ủng hộ, Nhà Đường phải nghe
Nghìn năm Bắc thuộc ê chề
Từ đây độc lập thuộc về tay ta
Khúc Thừa Dụ thật là công lớn
Đến bây giờ đời vẫn còn ghi
Chín trăm linh bảy niên thì(34)
Khúc ông tạ thế để về cõi tiên
Con Khúc Hạo bước lên kế vị
Cải cách nền chính trị quốc gia
Dân tình nay được âu ca
Mười năm Ông mất chưa là dài lâu
Quân Nam Hán lại vào xâm lược
Tướng họ Dương(35) mưu chước đánh tan
Nền độc lập được vẹn toàn
Đinh Công Trứ(36) giữ châu Hoan dưới quyền
(28)Tên tướng giặc.(29)Cao Chính Bình.(30)Phùng Hưng
(31)Dương Thanh.(33)Ông khúc Thừa Dụ .(34)Năm 0907
(35)Dương Đình Nghệ. (36)Cha của Đinh Bộ Lĩnh
Còn như tướng giỏi Ngô Quyền
Rể Dương Đình Nghệ, giữ miền Ái Châu(37)
Sự đời phản trắc biết đâu
Tướng Kiều Công Tiễn lại mưu giết thầy(38)
Dương Đình Nghệ từ nay vĩnh biệt
Viêc trên đời còn biết gì đâu
Ngô Quyền từ cõi Ái Châu
Kéo quân ra Bắc lấy đầu Kiều công(38)
Giặc Nam Hán, Kiều mong đã đến
Hai gọng kìm – nghe đến mà lo
Trận Bạch Đằng ta thắng to
Ngô Quyền - công ấy bây giờ còn vang
Nhà Nam Hán chịu đại tang
Hoằng Thao(39) chết trận, hết màng lược xâm
Chín trăm ba tám cuối năm(40)
Là năm chấm dứt ngàn năm Bắc thù
Trở về đô cũ - Cổ Loa
Những mong củng cố nước nhà dài lâu
Nào ngờ chỉ bốn năm sau
Ngô Quyền khuất núi, trong triều rối ren
Mống mầm cát cứ từng miền
Là do lỏng lẻo tập quyền từ lâu
Thế rồi hai chục năm sau
Triều đình tan rã, thi nhau tranh phần
Đó là thập nhị sứ quân
Đau thương lại đổ đầu dân cơ hàn
Nhờ Đinh Bộ Lĩnh song toàn
Tài cao chí lớn, dẹp nàn cho dân
Dẹp xong mười hai sứ quân
Lên ngôi hoàng đế, cách tân chính quyền
Đại Cồ Việt - là tên nước mới
Đất Hoa Lư được lấy làm đô(41)
Mười năm xây dựng cơ đồ
Tiên Hoàng(42) bị hại,ngọn cờ trao ai
Đinh Toàn sáu tuổi lên ngôi
Giặc Tống xâm lược, hỡi ôi nước nhà
Đời còn nhớ Vân Nga nhiếp chính
Vì nước nhà không tính thiệt hơn
Ngai vàng nhường tướng Lê Hoàn
Hợp lòng quan, tướng, muốn tôn bấy rày
Quân mười đạo ra tay quyết chiến
Hai gọng kìm, Tống biến thành tong(43)
(37)Ngô Quyền là rể Dương Đình Nghệ.(38)Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ và cầu quân Nam Hán.(39)tướng giặc. (40) Năm 0938 (41)Thuộc tỉnh Ninh Bình. (42)Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi gọi là Đinh Tiên Hoàng . (43) mất tong luôn
Rạng danh đất nước Lạc Hồng
Hoa Lư xây dựng nhà rồng vàng son
Vua cha mất - Vua con trụy lạc
Long Đĩnh Lê(44) bạo ngược ngọa triều
Một nghìn lẻ chin, Đĩnh tiêu(45)
Lý Công Uẩn được cả triều tôn vinh
Năm sau Lý Uẩn dời kinh
Từ Hoa Lư đến đất thành Đại La
Đại La được đổi tên là
Thăng Long từ đó, thủ đô rực cờ
Đến năm ngàn lẻ năm tư(46)
Đại Việt, tên nước, lại là tên tân(47)
Chùa chiền, mọi mặt cách tân
So với thời trước, nhiều phần trội hơn
Nhưng giặc Tống chập chờn xâm lược
Đánh giặc từ trong bước âm mưu
Lý Thường Kiệt phá Ung Châu(48)
Nhưng tham vọng Tống, đã đâu chôn vùi
Vậy là sau một năm thôi
Thủy bộ quân Tống đồng thời đánh sang
Lý Thường Kiệt phi thường lược thuật
Tống tơi bời, quân mất phần đa
Lưỡng nan, Tống phải giảng hòa
Rút lui thể diện, khỏi mà bại vong
Đại Việt toàn thắng, thành công
Thơ thần vang dội, thỏa lòng dân ta
Tưng bừng trong cảnh thái hòa
Hơn hai thế kỷ - dần dà suy vong
Chiêu Hoàng(49) - con gái Huệ Tông(50)
Nhường ngôi Trần Cảnh - là chồng - lên ngôi
Họ Trần được nối ngôi họ Lý
Thời gian đầu thế kỷ mười ba
Dân tình lại được âu ca
Triều Trần củng cố nước nhà thịnh lên
Giặc Mông Cổ tràn miền Âu , Á
Vào nước ta, giặc đã thua đau
Đường Vân Nam,chúng rút mau
Hai trăm năm tám(51) trận đầu thắng Nguyên
Trần Thái Tông ban khen tướng soái
Nhưng mưu Nguyên chưa thoái, còn tăng
Dọa đe cùng với khuyên hàng
Khen cho quân giặc hết đàng gian ngoan
(44) Lê Long Đĩnh. (45) Năm1009 Lê Long Đĩnh chết. (46) Năm 1054 (47) tên mới. (48) Thành Ung Châu Trung Quốc,nơi giặc tập kết (49)Lý Chiêu Hoàng. (50) Vua Lý Huệ Tông. (51) Năm1258
Hịch tướng sỹ được ban khắp nước
Hội Diên Hồng đã được quyết tâm
Hai tám lăm(52), mới đầu năm
Năm mươi vạn giặc xăm xăm kéo vào
Thoát Hoan tưởng: ào ào như thế
Đại Việt này nuốt dễ như chơi
Nào ngờ chỉ nửa năm trời
Đại Việt toàn thắng đất trời chuyển lay
Toa Đô chết ở trận này
Ống đồng chui rút, Hoan rày thua đau
Hốt Tất Liệt(53) đau đầu, bẽ mặt
Hoãn âm mưu chiếm Nhật, thêm quân
Ba năm sau, lại Thoát Hoan
Kỵ binh, thủy, bộ, ba đoàn kéo sang
Chương Dương, Tây kết, Bạch Đằng
Mồ chôn quân giặc, lẫy lừng núi sông
Ba lần thắng giặc Nguyên Mông
Cứu nguy không chỉ con rồng cháu tiên
Cứu nguy cho cả một miền
Đông Nam châu Á, khỏi tên bạo cường
Đời Trần thực huy hoàng rạng rỡ
Gương soi chung cho cả mai sau
Vì dân, vì nước làm đầu
Quân dân nhất trí cho dầu khốn nguy
Vẫn giữ được biên thùy bờ cõi
Lại dựng xây trở lại hơn xưa
Được non thế kỷ ai ngờ
Thịnh suy - quy luật không chừa triều mô
Nghìn bốn trăm(54a) sang nhà Hồ
Quý Ly giành được là do ép Trần
Sức dân kiệt, chưa phần nâng đỡ
Giặc Minh vào, ắt có là thua
Đại Ngu(54b) tan nát cơ đồ
Bốn trăm linh bảy(55) mất Hồ, thuộc Minh
Nước thì mất, nhân đinh nô lệ
Quân nhà Minh như thể hổ lang
Nước nhà tang tóc đau thương
Lầm than, tủi nhục, đoạn trường xiết bao
Sống không được, cùng nhau thà chết
Rất nhiều nơi đã quyết đứng lên
Cao trào nổi nhất là miền
Họ Lê - Thanh hóa, kết nguyền Lam Sơn
Mồng hai, tháng một, Mậu thân
Bốn trăm mười tám,một nghìn là năm(56)
(52) Năm 1285. (53) Vua Nguyên Mông (54a) Năm 1400 (54b) Đại ngu nghĩa là vui lớn (55) Năm 1407 (56)Năm 1418
Bình Định vương, đất Lam truyền hịch
Người theo về chống địch càng đông
“ Bình Ngô” vang dậy núi song
“ Việc nhân nghĩa” ấy hợp lòng dân, binh
Thế giặc mạnh, tình hình muôn khó
Giặc bao vây, không có gì ăn
Tướng Lê Lai phải xả thân
Cùng năm trăm lính bất thần phá vây
Vùng khởi nghĩa càng ngày càng rộng
Sức nghĩa quân gió lộng triều lên
Chi Lăng đại thắng vang rền
Liễu Thăng chết chém,Thông liền chịu thua(57)
Cho giặc rút, lại cho thuyền, ngựa
Đời hậu Lê muốn giữ hiếu hòa
Cốt sao giải phóng nước nhà
Bốn trăm hai bảy(58) vinh hoa lẫy lừng
Thắng giặc rồi không ngừng sửa nước
Từ hoang tàn dần được nâng lên
Thăng Long thì được đổi tên
Đông Đô từ dó tập quyền càng tăng
Vua Lê - lại mở mang bờ cõi
Đèo Cù Mông biên giới phía Nam
Đề cao học vị, học hàm
Dựng xây Văn miếu – tao đàn ngợi ca
Nhưng quy luật, vẫn là quy luật
Thịnh rồi suy là bước tiếp theo
Ngàn xưa gương ấy đã treo
Mà sao không lấy là điều soi thân
Hết sống nổi, nông dân khởi nghĩa
Rồi trong triều tình thế rối reng
Năm trăm hai bảy(59) Mạc Đăng(60)
Cướp ngôi nhưng chẳng thuận hằng ba quân
Tướng Nguyễn Kim, chiếm phần Thanh – Nghệ
Phục hưng Lê - thực tế tiếm quyền
Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm liền
Trở mặt đoạt chức, đoạt quyền về tay
Nội chiến dài - dân đầy thảm khốc
Biết là bao tang tóc đau thương
Con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng
Xin vào đất Quảng, lo đàng về sau
Hết Trịnh –Mạc, lại đau Trịnh –Nguyễn
Sông Gianh làm giới tuyến phân chia
Hai trăm năm thật ê chề
“Chinh phụ ngâm” đã kể về chinh phu(60b)
(57) Vương Thông. (58)Năm 1427.(59)Năm 1527. (60) Mạc Đăng Dung (60b) Thơ chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm.
Đây chẳng nói:” gió ù ù thổi”
Mà nói qua thế giới bấy giờ
Hà Lan với Bồ Đào Nha
Lợi dụng buôn bán đến ta gây phiền
Bồ Đào Nha thì giúp chúa Nguyễn
Còn Hà Lan giúp Trịnh đánh nhau
Đạo Thiên chúa được truyền vào
Đầu tiên giáo sỹ Bồ Đào truyền vô
Chuyện quốc sự lắm trò rắm rối
Dân đàng ngoài chết đói ngổn ngang
Hoạn quan một lũ ngang tàng
Ép vua, nịnh chúa, nhiễu nhàng thiện dân
Ghét bạo chúa trăm phần nghìn phía
Khắp nơi nơi khởi nghĩa đấu tranh
Nhưng lực lượng nhiều manh, nhiều mối
Chưa có người gánh nổi giang sơn
Đàng trong cũng không hơn không kém
Cháy to rồi còn dém được sao
Tây Sơn với ngọn cờ đào
Bần cùng cho đến phú hào đều theo
Nghĩa quân mạnh như diều gặp gió
Nhưng có khi cũng khó cũng nguy
Quân Trịnh vào áp một bề
Còn thì quân Nguyễn bề kia tấn về
Năm vạn Xiêm, bên kia đánh tới(61)
Quân Tây Sơn lèo lái khó khăn
Tài thao lược, có nhân dân
Vinh hoa toàn thắng bội phần Tây Sơn
Diệt Trịnh, Nguyễn, Quy Nhơn xưng đế
Cách mạng thành, tưởng thế là xong
Tôn Sỹ Nghị, giặc Càn Long(62)
Bảy trăm tám tám(63), tấn công Long Thành(64)
Lê Chiêu Thống ôm gót Thanh
Xéo giày dân tộc, hoành hành nhân dân
Vừa căm giặc, căm quân phản bội
Quang Trung ra, hỏi tội quân Thanh
Tết Kỷ Dậu(65) giải phóng Thành
Giặc Sầm Nghi Đống, tự mình quyên sinh
Tôn Sỹ Nghị, bỏ thành tháo chạy
Giặc phơi thây biết mấy vạn tên
Thắng giặc rồi, sửa nền dân nước
Giảm thuế, nâng từng bước sức dân
(61) Do Nguyễn Ánh cầu cứu. (62) Vua nhà Thanh. (63) Năm 1788 (64) Thành Thăng Long. (65) Ngày 30/1/1789.
Nhưng Nguyễn Ánh cầu quân ngoại quốc
Giành lại ngôi, để được làm vua
Quang Trung nắm được mưu đồ
Định ra kế sách diệt thù cho dân
Nhưng kế sách chưa phần thực hiện
Thì ôi thôi, về với tổ tiên
Ba chín tuổi làm nên công lớn
Muôn đời sau, sử vẫn ngợi ca
Tám linh hai(66) Nguyễn Ánh thế là
Nhờ Pháp giúp để mà lên ngôi
Ánh lên ngôi, thế rồi đàn áp
Luật Gia Long, đau khắp nơi nơi
Sưu cao thuế nặng tơi bời
Phu phen, tạp dịch, cuộc đời lầm than
Vỡ đê, mùa mất cơ hàn
Tha phương tầm thực, từng đoàn ly quê
Thực dân Pháp lăm le xâm lược
Dân mình không sống được vùng lên
Nông dân khởi nghĩa mọi miền
Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Thái Bình
Mạnh mẽ nhất là Phan Bá Vành
Từ Quảng Yên đến Hòa Bình, Sơn Tây
Nội thế sự chất đầy mâu thuẫn
Việc xâm lăng Pháp muốn từ lâu
Tự do, Bảo hộ(?) là cầu
Mượn đường, mượn cớ, tiến vào nước ta
Việc xâm lược dần dà từng bước
Triều đình thì bạc nhược sợ Tây(67)
Không kháng chiến, không gây căm giận
Còn nhờ Tây hậu thuẫn ngai vàng
Nhưng Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
Lừng danh Hoa Thám, họ Hoàng chống Tây(68)
Là vua sau cũng có ngày
Duy Tân chống Pháp bị đày đảo xa
Phan Đình Phùng cũng là chí sỹ
Phan Bội Châu, ta quý lòng ông
Nhưng mà muốn cứu non song
Cứu cho vô sản, công nông phải là
Nguyễn Ái Quốc, vượt qua bốn bể
Gặp Mác – Lê chủ nghĩa vô song
Ra đi từ bến Nhà Rồng
Gửi tài liệu quý về trong nước nhà
Phong trào cộng sản nước ta
Phôi thai, nhen nhóm do là từ đây
(66) Năm 1802 (67) Pháp (68) Hoàng Hoa Thám
Năm ba mươi(69), mồng ba tháng hai
Hồng Công, sân cỏ, ra đời Đảng ta(70)
Cương lĩnh nêu hai ngọn cờ(71)
Từ trong máu lửa, đày tù kiên trung
Cách mạng tháng Tám thành công
Phá toang một cổ hai tròng cho dân
Chín năm dồn đến Điện Biên
Giơ-ne(72) chia nước hai miền, hai năm
Nhưng Mỹ Ngụy đem tâm chia cắt
Lại trường chinh bất chấp hy sinh
Nhờ ơn Đảng - Hồ Chí Minh
Bảy Lăm(73) toàn thắng, mít tinh tưng bừng
Từ đây thống nhất non song
Mừng vui triệu triệu tấm lòng xiết bao
Búa liềm cờ đỏ vàng sao
Trường Sa, Cao Lạng, Cà Mâu, một màu
Trăm năm nay thỏa ước ao(74)
Bút tôi không tả nổi đâu, kính chào
(69) Năm 1930 (70) Nơi hội nghị thành lập Đảng (71) Độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. (72) Hiệp định Giơ- ne năm 1954(73) Năm 1975 (74) Câu này thơ Tố Hữu
Viết xong ngày 20 tháng 9 năm 1998
( Tự đánh máy vi tính xong 5h20 ngày 4/3/2011)
DOÃN HỮU MAI
(Địa chỉ: Xóm Thái Hòa, Xã Nghi Thái, Huyện Nghi Lộc,Tỉnh NghệAn)
Điện thoại: (038) 3 616 263